Chi tiết tin

A+ | A | A-

KỶ NIỆM 153 NĂM NGÀY SINH NHÀ YÊU NƯỚC PHAN CHÂU TRINH: (09/9/1872 - 09/9/2025)

Người đăng: Admin Tây Hồ Ngày đăng: 11:23 | 08/09/2025 Lượt xem: 288

Hiến dâng trọn đời mình vì sự nghiệp cứu nước Phan Châu Trinh hay Phan Chu Trinh, hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, tự là Tử Cán. Ông là nhà thơ, nhà văn và là nhà hoạt động chính trị thời cận đại trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong những nhân vật gắn liền với cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc, làm biến chuyển lịch sử và xã hội Việt Nam ở thế kỷ XX.

Phan Châu Trinh sinh ngày 09/9/1872, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc thôn Tây Lộc, xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, tự là Tử Cán.

Cha ông là Phan Văn Bình, làm chức Quản cơ sơn phòng, sau tham gia phong trào Cần Vương trong tỉnh, làm Chuyển vận sứ đồn A Bá (Tiên Phước) phụ trách việc quân lương. Mẹ ông là Lê Thị Trung, con gái nhà vọng tộc, thông thạo chữ Hán, ở làng Phú Lâm, huyện Tiên Phước. Cha mẹ ông sinh được 3 người con, ông là con út. Năm 10 tuổi, ông mới được vào trường để học.

 

Chân dung Nhà yêu nước Phan Châu Trinh

Mẹ ông mất sớm vào năm ông lên 6 tuổi. Với tư chất thông minh, cần cù, hiếu học; sinh ra trong hoàn cảnh đất nước đầy biến loạn, tuổi thơ Phan Châu Trinh trải qua nhiều gian nan cơ cực cùng với sự thăng trầm của lịch sử dân tộc: Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, năm 1861 chiếm Nam Kỳ, năm 1873 chiếm Bắc Kỳ và năm 1885 chiếm kinh thành Huế, nước Việt Nam trở thành nước bị đô hộ, Nhân dân Việt Nam trở thành người nô lệ. Trước cảnh đau thương ấy, phong trào Cần Vương bùng nổ, tại quê hương Quảng Nam, phong trào Nghĩa hội là một trong những tổ chức hoạt động chống Pháp nổi tiếng mà cha ông là PhanVăn Bình đã tham gia, giữ chức vụ Quản cơ sơn phòng. Hòa mình với khí thế hừng hực đánh giặc, Phan Châu Trinh theo học võ nghệ với nghĩa quân, đến năm 1887, cha mất, phong trào Nghĩa hội bị đàn áp trong biển máu. Đau xót trước nỗi đau mất cha, nhưng cũng chính lúc này hình thành trong ông một tư tưởng vì dân, vì nước. Ở tuổi 16 đầy nhiệt huyết, ông đã trăn trở để tìm ra con đường cứu nước của mình. Câu hỏi lớn đặt ra: “Nhìn lại tình thế của đất nước, ông nhận định, dân ta không hèn kém, mà chỉ tại nhóm quan lại do cái học hư văn xuất thân, không còn biết sớm đào luyện tinh thần toan dân từ trước, và không sớm lo cải cách, không nhìn thấy xa hơn điều cần phải làm. Chung quy cũng chỉ tại cái học lầm lạc của dân nước ta mà ra. Một dân tộc muốn tự cường, trước hết phải mới về học thuật, vậy toàn dân ta cần phải cố gắng nhiều, bắt đầu từ việc học….(Theo Danh nhân Việt Nam). Từ những suy nghĩ này, ông tự thấy trách nhiệm của mình trước vận mệnh đất nước, điều đó thôi thúc ông hăng hái tiến trên con đường học vấn.

 

Các đồng chí lãnh đạo dâng hương tại Nhà lưu niệm cụ Phan Châu Trinh

 

Năm 1887, ông trở lại công việc đèn sách sau gián đoạn gần 3 năm. Năm 1892, Phan Châu Trinh kết bạn với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp khi ông theo học với thầy Mã Sơn - Trần Đình Phong, một nhà giáo có đức độ, chí khí, tận tâm đào tạo nhân tài cho Quảng Nam để sau này có điều kiện giúp dân, cứu nước.

Năm 1900, Phan Châu Trinh thi đỗ cử nhân, một năm sau đỗ Phó bảng nhưng phải về nhà vì đám tang anh ruột và ông ở lại dạy học. Sau đó, Phan Châu Trinh được bổ làm Thừa biện bộ Lễ, trong thời gian ở Huế, ông đọc sách về công cuộc duy tân ở Nhật Bản, tiếp cận chủ thuyết tam dân “Dân  tộc độc lập - Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh phúc” của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu; tư tưởng dân chủ tư sản của các nhà dân chủ Pháp và những kế sách cải cách của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ... Những tư tưởng tiến bộ đó đã tác động mạnh mẽ đến Phan Châu Trinh. Vì vậy, tuy sống làm quan ở kinh đô nhưng tấm lòng ông luôn mang nặng nỗi đau người dân nô lệ với thân phận của người mất nước, ông từ quan trở về quê Quảng Nam tìm đường cứu nước và năm 1904, tại làng Thạnh Bình, huyện Tiên Phước, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Phan Bội Châu gặp nhau để bàn việc khởi sự.

 

Nhà lưu niệm Phan Châu Trinh ở thôn Tây Lộc

 

Sau khi đàn áp dập tắt phong trào Cần Vương, những năm đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp thực hiện chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất, Nhân dân ta “một cổ hai tròng” bị bóc lột bởi sưu cao, thuế nặng cộng với chính sách ngu dân, chia để trị, kìm hãm sản xuất, vơ vét tài nguyên cung cấp cho chính quốc Pháp… Tình cảnh đau thương khốn cùng ấy đã thôi thúc tấm lòng yêu nước của ông. Được tiếp thu những tư tưởng dân chủ tiến bộ, Phan Châu Trinh nhận thức về con đường cứu nước bằng cách mới chứ không theo con đường Cần Vương tuy oanh liệt nhưng kết cục đầy bi tráng như người cha của ông đã làm. Trước cảnh lầm than của Nhân dân, Phan Châu Trinh nhận thấy rằng cứu nước phải từ nội lực của Nhân dân, cứu nước trước hết phải cứu dân, ông đề ra chủ thuyết “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.

Năm 1905, “Bộ ba” Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp lên đường vào Nam, tìm hiểu sự tiến bộ của văn minh phương Tây, tuyên truyền những tư tưởng mới về dân chủ, tự cường... Sau đó, ông về lại Quảng Nam, đầu năm 1906, ông ra Bắc, chuẩn bị thành lập cơ sở duy tân tại Hà Nội, lên Yên Thế, tìm hiểu hoạt động chống Pháp của lãnh tụ nông dân Hoàng Hoa Thám, rồi sang Trung Quốc, Nhật Bản gặp Phan Bội Châu, tìm hiểu chính sách duy tân của nước Nhật.

Trên hành trình bôn ba trong nước từ Nam ra Bắc, Phan Châu Trinh không ngừng diễn thuyết truyền bá tư tưởng dân chủ, dân quyền với mục đích cuối cùng là giải phóng dân tộc, cứu dân thoát khỏi ách nô lệ. Với ảnh hưởng của tư tưởng ấy, phong trào Duy Tân do ông khởi xướng đã thu hút gần hết các nhân sĩ yêu nước, nổi bật là các phong trào: cắt tóc ngắn, dùng hàng nội, mặc đồ âu, học chữ quốc ngữ, bài trừ mê tín dị đoan... đã phát triển rầm rộ lúc bấy giờ. Với tư tưởng tự tôn dân tộc “Dân nghèo là dân dễ bị nô lệ”, Phan Châu Trinh vận động “dĩ thương hợp quần”, thành lập nhiều thương hội để tập hợp những người yêu nước, lo cho dân giàu, nước mạnh; mà ở Quảng Nam là nơi đầu tiên thực nghiệm chủ trương này. Về dân trí, các trường học duy tân được ra đời, trong đó tập trung nhiều nhất ở Quảng Nam... sau đó các mô hình cải cách xã hội này đã lan rộng ra cả nước, trong đó Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập có công lao rất lớn của Phan Châu Trinh.

Những năm tiếp theo, với sự bùng nổ của phong trào cải cách, nền tảng tư tưởng dân chủ, dân sinh được bén rể ở nông thôn và dưới ảnh hưởng của phong trào; không thể chịu nỗi áp bức, cường quyền, cuộc sống lầm than cơ cực, Nhân dân đã nhất tề vùng lên; phong trào xin xâu, chống thuế là hậu quả tất yếu của phong trào Duy tân do Phan Châu Trinh khởi xướng và lãnh đạo, điều đặt biệt là phong trào có quy mô lớn nhất lại xuất phát từ chính quê hương Quảng Nam vào tháng 3/1908. Từ Quảng Nam, phong trào nhanh chóng lan ra khắp nơi từ Thanh Hóa cho đến Bình Thuận. Lần đầu tiên trong lịch sử, có những cuộc biểu tình nổi dậy đòi dân sinh, dân chủ thể hiện sức mạnh của quần chúng Nhân dân lao động, làm rung động cả bộ máy chính quyền thực dân và phong kiến… Lúc bấy giờ, khắp nơi trong cả nước đã tung các truyền đơn phát huy dân Quảng Nam “Gan thay dân Quảng Nam. Oanh liệt thay dân Quảng Nam!”.

Trước sức mạnh như triều dâng thác đổ của phong trào xin xâu, chống thuế; thực dân Pháp và tay sai đàn áp dã man, hàng nghìn nông dân bị giết, bị tra tấn, tù đày; các chí sĩ như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng bị bắt đày đi Côn Đảo. Không thể làm lung lay ý chí của nhà yêu nước, trong tù ông luôn luôn tố cáo chế độ lao tù của thực dân, vì vậy ba năm sau (1911), thực dân Pháp buộc phải trả tự do, nhưng lại giam lỏng Phan Châu Trinh ở Mỹ Tho. Bị ông phản đối quyết liệt, thực dân Pháp phải cho ông ra nước ngoài cùng con trai là Phan Châu Dật vào cuối năm 1911. Đến nước Pháp, Phan Châu Trinh tiếp tục đấu tranh, ông viết các tác phẩm nêu rõ thực trạng bần cùng của xã hội Đông Dương, tố cáo chính sách bóc lột của thực dân Pháp qua các tác phẩm “Trung kỳ dân biến kỷ mạt thí”, “Đông Dương chính trị luận”... Năm 1914, Phan Châu Trinh bị thực dân vu cáo thân Đức chống lại nước Pháp, ông bị bắt giam vào ngục Santé. Một lần nữa, khí phách của Phan Châu Trinh lại được tôi luyện thử thách trong gông cùm của nhà tù thực dân, nhưng dù trong hoàn cảnh nào, từ Côn Đảo đến Mỹ Tho hay ngục Santé, ông vẫn không ngừng đấu tranh cho lý tưởng độc lập dân tộc, dân chủ của Nhân dân Việt Nam.

Tháng 7/1915, ra tù, cũng như mọi người dân mất nước nơi đất khách quê người, Phan Châu Trinh phải lao động khổ cực để kiếm sống và tìm điều kiện hoạt động. Với sự đồng cảm của người dân nô lệ, Phan Châu Trinh đã gặp Nguyễn Ái Quốc - sau này là Hồ Chí Minh. Ông đã nhìn thấy một tương lai rộng mở ở người cách mạng trẻ tuổi có nhiệt huyết này, đã giúp đỡ anh Nguyễn lúc cơ cực, cung cấp nhiều tư liệu cho Nguyễn Ái Quốc. Hoạt động của Phan Châu Trinh trong thời gian ở Pháp rất phong phú, ông giao tiếp với nhiều Việt kiều, nhà yêu nước, nhân sĩ tiến bộ như luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh... và cùng các nhân sĩ trí thức thành lập “Hội đồng bào thân ái” tại Pháp. Chính tấm lòng lo cho dân, cho nước ấy mà Phan Châu Trinh được mọi người yêu mến, kính trọng. Nguyễn Ái Quốc gọi Phan Châu Trinh thân mật là “Nghi bá” (người bác, bạn kết nghĩa với cha mình) hoặc là Bác và xưng là cháu hoặc “cuồng điệt” (đứa cháu hăng say), hay “ngu điệt” (đứa cháu dại khờ). Và lúc này, Phan Châu Trinh mới có dịp chiêm nghiệm lại sự thành bại hoạt động chính trị của mình và nhận thấy con đường cứu nước đối với Nhân dân Việt Nam không thể theo khuynh hướng dân chủ tư sản, với tri thức của nhà cách mạng tiền bối và qua kết thân với Nguyễn Ái Quốc, ông có điều kiện tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin và đã có tầm nhìn xa về tương lai của Nguyễn Ái Quốc, kỳ vọng vào anh Nguyễn như sau này ông nói với Huỳnh Thúc Kháng, Lê Văn Huân: “Độc lập của nước Nam ta sẽ trông cậy vào Nguyễn Ái Quốc”.

Tuy ở ngoài nước, nhưng tấm lòng hướng về tổ quốc vẫn không nguôi, Phan Châu Trinh tìm mọi cách để về nước hoạt động nhưng không được. Năm 1925, chính sách thuộc địa thay đổi, đặc biệt tình hình cách mạng Việt Nam có nhiều chuyển biến mạnh mẽ,  sâu sắc. Phan Châu Trinh về quê hương sau 14 năm ở Pháp. Nhưng do lao tâm, lao lực và bệnh cũ tái phát, ngày 24/3/1926, Phan Châu Trinh vĩnh viễn ra đi tại Sài Gòn. Tin buồn loan khắp nơi, đồng bào cả nước đều thọ tang, tỏ lòng thương tiếc vô hạn Nhà yêu nước lớn suốt đời hiến thân vì sự nghiệp của dân tộc.

Nhìn lại 20 năm hoạt động cách mạng, Phan Châu Trinh là người mở đường cho phong trào duy tân, cải cách của Việt Nam đầu thế kỷ XX: “Lập Nghĩa thục, một phần công lớn là do cụ, gây tư tưởng mới ở Quảng Nam là do cụ, đi khắp nơi diễn thuyết là do cụ, khuyên dân cắt tóc là do cụ, bỏ tục nhuộm răng đen, vận âu phục bằng hàng nội hóa thì người đầu tiên là cụ”. Vì tất cả các hoạt động đó mà Phan Châu Trinh đã hai lần bị tù tội, từ ngục Côn Đảo đến ngục Santé (Pháp), phải chịu cảnh vợ chồng biệt ly. Nhưng bất chấp tất cả, Nhà yêu nước Phan Châu Trinh hoạt động cho đến hơi thở cuối cùng. Ông đã hiến dân trọn đời mình vì sự nghiệp cứu nước với mục tiêu: Dân chủ, độc lập. Dù sự nghiệp đấu tranh giành độc lập của Phan Châu Trinh không thành, nhưng tấm gương yêu nước, thương dân của ông mãi sáng ngời.                                                                         

Tác giả: BBT (Tổng hợp)

Các tin mới hơn:

Các tin cũ hơn:

icon

Bản đồ hành chính

icon

Danh mục

icon

Thống kê truy cập

Tổng số lượt truy cập

000029715

Hôm nay: 13
Hôm qua: 276
Tháng này: 1663
Tháng trước: 539